ĐỘNG VÀ TỊNH TRONG
“HẠT BỤI NÀO BAY QUA”
CỦA THÁI TÚ HẠP
ĐẶNG PHÚ PHONG
Cái động và tịnh là hai trạng thái hiển nhiên, vậy mà tự ngàn xưa cho tới chí ngày nay con người luôn luôn tư nghị.
Bậc thiền sư trải tâm trong Động, Tịnh và trong một sát na Thiền sư Ngộ. Sự tư duy biến mất, Động và Tịnh biến mất theo. Hay nói một cách khác, Động và Tịnh vẫn hiện hữu sờ sờ. Một người tìm cách mở cửa vào căn nhà, cánh cửa mở, người bước vào, cánh cửa và người - bước - vào biến mất. Nhưng cánh cửa vẫn là cánh cửa cho những ai khác muốn vào.
Động và Tịnh được nhắc thật nhiều trong “Hạt Bụi Nào Bay Qua” bằng tựa của những bài thơ và bằng nhiều chữ thơ. Tác giả đã đu mình vào Động và Tịnh:
“Mai về khép cánh biển dâu,
Giở trang vô tự trắng nhòa sắc không
Chờ nhau dưới cội vô thường
Soi tâm tư hiện một vầng trăng xưa”
(Thanh Tịnh Khúc)
Một vầng trăng xưa chắc chắn là một khúc u hoài, một chìm đắm dĩ vãng không như một tiếng cười, không như một tiếng khóc mà là một sự dung dị bình thản. Vậy thì vầng trăng xưa động hay tịnh?
- Không có tiếng trả lời mà là một vọng âm:
“Bụi nào chao động hoàng hôn,
Trong vô lượng kiếp mù tăm mặt hồ”
(Tâm Tịnh)
Tưởng cũng nên ghi thêm vào đây công án thiền về Động.
Hai vị sư tranh cãi nhau trong lúc thấy gió thổi, bức màn lay động. Một vị nói: “Gió thổi làm bức màn lay động, vậy là gió động”. Vị kia nói: “Không thấy gió làm sao bảo là gió động được mà chính là bức màn động”.
Sư phụ đi ngang qua nghe thế nói: “Gió không động, bức màn không động mà chính tâm hai con động”.
Người thơ Thái Tú Hạp đã nhảy vào Động, Tịnh ngồi sừng sững như đồi Liễu Quán mà ngắm nhìn 10 bức tranh chăn trâu để rồi:
“Ta một mình phiêu bạt,
“Tâm giã biệt về đâu”
hay:
“Người đi hun hút thẳm,
Cát bụi nào vong thân”
(Chiều Qua Đồi Liễu Quán)
Có thể Thái Tú Hạp đã “cân đẩu vân” một mạch tuốt về tận sông Thu Bồn, để nguyên quần áo nhảy ào xuống nước - Đê Mê - Nhưng dòng sông chỉ tắm một lần vì dòng sông động, và người thơ muốn dùng cái Tịnh để giữ một cái Động.
“Ta hẹn em sẽ trở về
Bên đồi lau lách biếc
Chim rủ nhau quay tít trên ngàn cây
Đời sống lại những mầm xanh bát nhã”
(Trở Lại Suối Nguồn)
“Chuyện ngày xưa thuyền vui cửa Đại,
Trăng Thu Bồn khua mái đò ngang”
(Tôi Sẽ Về Thăm Quảng Nam)
Cái quê hương xứ Quảng của ông lúc nào cũng Động trong ông, thôi thúc, giục giã ông về để hít mùi cay cay của Quế, để ăn trái cây ngọt lịm mùa Nam Trân, hớp một ngụm trà Kỳ Sơn trong buổi sớm sương lấp lánh. Và rồi ngồi an nhiên trong Chùa Cầu và không biết ông có nghe tiếng “chim trong vườn Viên Giác hót líu lo”.
Vậy thì người thơ ơi, Tịnh quê hương hay Động quê hương?
Chối bỏ là thói thường của phàm phu, cưu mang là cái nghiệp của người thi sĩ. Thái Tú Hạp là thi sĩ, Thái Tú Hạp cưu mang. Cưu mang em, cưu mang quê hương và thêm một bước nữa, một bước nhưng ngàn trùng là ông cưu mang Động và Tịnh. Trong ẩn cư của ông là một sự tìm hỏi, một ngơ ngác trước vô thường:
“Cố nhân đà biệt tích
Giếng cũ chiều rêu phong
Khói sầu lên hiu hắt
Trong hồn em đau thương”
(Ẩn Cư)
Cái giếng là một tấm gương soi. Cái giếng là một cội nguồn. Tất cả đều rêu phong nhưng dù ngoài kia có:
“Nước đôi dòng trắc trở,
Ta một dòng quê hương”
(An Cư)
Từ trong Động và Tịnh ông đã “Ngộ”
“Chữ nghĩa không còn trang kinh
Tâm già nua chợt thức
Đầu cành ngọt nắng nguyên trinh”
(Vô Tự)
Giọt nắng nguyên trinh là nhành hoa của Đức Thích Ca, là bức tường của Bồ Đề Lạt Ma, và cũng là Vô Tự, cái Chân Không hay cái Như Không, khiến cho:
“Không có gì ngọn đỉnh
Hoa lá thiên thu nhòa
Càn khôn như giọt nước
Chảy hoài trong tâm ta”
(Như Không)
Từ cái “Như Không” đó ông đã hình thành cho mình một “cõi riêng”, A! Vấn đề là ở đây:
“Tình xưa về ngự cõi riêng
Đường ngôi em rẽ hai miền phù vân
.....
Có không trên ngọn cát bồi
Sớm hôm rồi chợt qua đồi cỏ lau
.....
Em về hoang tịch đời ta
Dấu hương khói nhuộm nhạt nhòa chân mây”
(Cõi Riêng)
Em, người tình, người vợ và là gì gì đi nữa thì trong cái cõi riêng muộn màng đó lại chỉ là sự trẻ thơ, bởi vì sự trẻ thơ hồn nhiên mới đích thực là tình yêu:
“Hãy thực thà yêu nhau
Đôi mắt trẻ thơ cười vui với bát cơm gạo trắng
Gặp nhau từ ái trong tâm
(Mùa Hạnh Ngộ)
Ngoài sự thực thà, trẻ thơ và từ ái thì không còn gì đáng phải lưu tâm bởi cái đáng nói đáng làm đã bị ức chế, tắc nghẽn để cho giọt u buồn còn đọng lắng trong hồn đau.
“Tưởng như có niềm vui
nhưng không phải đâu em
chỉ là hạt bụi vu vơ
ngân phiếm giây nhung nhớ cũ
của đêm qua giấc mơ còn rơi lại
Giọt u buồn còn đọng lắng trong hồn đau
Đời hắt hiu đang chờ ta thức dậy
còn đâu em
một tiếc nuối qua mau
(Hạt Bụi Nào Bay Qua)
Còn đâu em
một tiếc nuối qua mau
Tiếc nuối qua mau đã làm ông quay về với cái Tịnh. Cái Tịnh có thể khắc chế cái Động. Người thơ trở nên nhẹ nhàng trong u mặc, nhớ nhung trong thanh thản, đến một lúc nào đó lòng người thơ trở nên vô cùng rộng và em bây giờ đã trở thành lãng đãng khói sương.
“Mai ta về giữa non cao
Xé mây làm áo lụa đào cho em”
Hốt nhiên em là mây trời. Hốt nhiên chói lòa hiển diện. Sắc tức thị Không...trong anh.
“Mai về khép cánh biển dâu
Giở trang vô tự trắng nhòa sắc không
Chờ nhau dưới cội vô thường
Soi tâm tư hiện một vầng trăng xưa”.
(Thanh Tịnh Khúc)
Thay Kết: Bước vào cõi riêng của Thái Tú Hạp đã làm kẻ viết bài này ngây ngây ngất ngất, viết lèo một mạch, vừa lúc ngưng để lấy đà cũng là vừa lúc thấy mình “Động” trong cái Động và Tịnh của “Hạt Bụi Nào Bay Qua”. Nên chi phải ráng hết sức bình sinh nhảy ngược lại, ra khỏi cõi riêng của tác giả bởi e sợ bị nhốt trong khoảng mênh mông của người thơ nếu đi thêm một bước nữa.
Xin trả lại cõi riêng cho người thơ Thái Tú Hạp.